Thể hiện:
Album: Album nhạc cách mạng và chiến tranh
Năm sáng tác: https://hoangvan.org/1953 (theo
Hoàn cảnh ra đời: xem sau lời bài hát.
1-
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua đèo.
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua núi.
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi
Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù.
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua đèo.
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua núi.
Gà rừng gáy trên nương rồi dấn bước ta đi lên nào.
Kéo pháo ta sang qua đèo trước khi trời hửng sáng.
Sắp tới nơi còn một đợt nữa thôi.
Vai ướt đẫm sương đêm cùng mồ hôi.
Tới đích rồi đồng chí pháo binh ơi
Vinh quang thay sức người lao động.
Hò dô ta pháo ta vượt đèo.
Lòng quyết tâm sắt gang nào bằng .Hò dô…
2-
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua đèo.
Hò dô ta nào! kéo pháo ta vượt qua núi.
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi
Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù.
Kéo pháo ta lên trận địa đây vùi xác quân thù.
Mặc cho bom đạn bốc cháy quanh mình ta rồi.
Mặc cho quân thù bắn phá trên đường ta đi
Dù lửa nóng trong bom đạn bốc cháy xung quanh ta rồi.
Bám chắc tay không buông rời quyết tâm bảo vệ pháo.
Kéo pháo lên trận địa của chúng ta
Tin chắc thắng ta tin tưởng ở trên.
Tới đích rồi đồng chí chúng ta ơi
Mai đây nghe pháo gầm vang trời
Cùng bộ binh đánh tan giặc thù
Thề quyết tâm đánh tan giặc thù.
Hò dô…
Hai, ba nào… Hò dô ơ.
Hình ảnh lưu trữ: Hò kéo pháo, xuất bản lần đầu và đoạt giải nhất của hội diễn toàn quốc lần đầu tiên năm 1954
Rất nhiều bài báo đã viết về hoàn cảnh ra đời của ca khúc đặc biệt này. Xin các bạn đọc một số bài báo
1. Hoàng Hải viết cho báo An ninh thủ đô
Nhạc sĩ Hoàng Vân bồi hồi nhớ lại kỷ niệm khi viết "Hò kéo pháo"
Thứ Hai, ngày 20/06/2016 16:19 PM (GMT+7) - Ảnh: NS Hoàng Vân và tác giả bài báo
29-6, ngày lịch sử của Binh chủng Pháo binh anh hùng kể từ ngày thành lập Binh chủng, đến nay tròn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Ký ức và kỷ niệm sâu sắc về Binh chủng trong chúng tôi, những cựu chiến binh Pháo binh trước hết là bài hùng ca đi cùng năm tháng “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân.
Hỏi thăm, lần tìm mãi khu vực trung tâm thành phố, quanh hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi cũng tới được nhà nhạc sĩ Hoàng Vân ở số 14, tầng 2, phố Hàng Thùng, Hà Nội. Cửa phòng mở, nhạc sĩ đã đứng trước mặt với dáng người mệt mỏi, bắt tay chúng tôi mời ngồi vào bàn uống nước. Chúng tôi chủ động xin lỗi ông, vì đường đột đến nhà mà không hẹn trước. Dù vậy, khi biết chúng tôi muốn ông kể lại về cảm xúc khi viết bài hát “Hò kéo pháo” ở Điện Biên Phủ năm 1954, nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Binh chủng Pháo binh, ông đã niềm nở:
- Không sao, tuy có mệt nhưng bệnh tình không trầm trọng, bác sĩ cho biết điều trị đến cuối tháng này, sức khỏe sẽ ổn định trở lại. Mà với tuổi Canh Ngọ (1930), sức khỏe thế cũng là tốt lắm rồi.
Sau chầu nước, ông bắt đầu câu chuyện. Lúc đầu, ông nói như phải cố gắng hết sức nhưng càng về sau lại như càng khỏe ra. Ông kể lại những kỷ niệm sâu sắc, những cảm xúc mãnh liệt thôi thúc ông viết “Hò kéo pháo” ngay trên chiến trường Điện Biên năm xưa:
“Khi sáng tác bài “Hò kéo pháo”, tôi chưa phải là nhạc sĩ, mà là lính, là Đại đội trưởng Đại đội Độc lập, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Vì biết tiếng Pháp, tôi được điều động tham gia công tác ở Ban Địch vận, rồi sau được điều lên tổ công tác của Ban chỉ huy Mặt trận do đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính ủy mặt trận phụ trách. Tổ công tác gồm những cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn ở các Đại đoàn với nhiệm vụ cơ động, sẵn sàng nhận và thực hiện mọi nhiệm vụ theo yêu cầu của mặt trận, số đông là trí thức, có văn hóa, trong đó có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác, diễn viên văn công Kim Ngọc.
Ngót 2/3 thế kỷ đã trôi qua, ký ức cuộc đời việc nhớ, việc quên, nhưng ký ức Điện Biên với “Hò kéo pháo” đối với tôi, lúc nào cũng hiện hữu. Đó là những ngày tổ công tác chúng tôi đi cùng với pháo binh kéo pháo vào chiến dịch.
Tôi vẫn nhớ, những ngày đầu tháng 12-1953, tại mặt trận Điện Biên Phủ, do lực lượng địch chưa được tăng cường, trận địa phòng ngự của chúng mới được xây dựng chưa ổn định và kiên cố, đang ở cấp độ trận địa dã chiến, nên Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng để tiêu diệt quân thù với phương châm: “Đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Theo đó, kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh dự kiến phải sử dụng 3 Đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh và phòng không với số quân tham gia chiến đấu khoảng 35.000 người. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ, tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung thì quân số tham gia chiến dịch ước khoảng 42.000 người. Thời gian theo kế hoạch “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong 2-3 ngày, thời điểm nổ súng là 17h ngày 25-1-1954 (sau là 26-1-1954).
Ngày 14-1-1954 tại hội nghị cán bộ quân chính cấp Trung đoàn, Đại đoàn toàn mặt trận tại hang Thẩm Púa - Sở chỉ huy lâm thời của Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh trực tiếp giao nhiệm vụ cho các đại đoàn tham chiến. Đại tướng giao nhiệm vụ đưa đại bộ phận lựu pháo và pháo cao xạ vào bố trí trận địa ở phía Bắc tập đoàn cứ điểm của địch. Phải mở ngay một con đường vắt qua núi để dùng sức người kéo pháo từ đường 41 (nay là đường 42) sang đường Điện Biên đi Lai Châu, trong một ngày đêm con đường đó phải hoàn thành. Chúng ta chủ trương kéo pháo bằng sức người, không phải chúng ta không làm được đường cho xe kéo, mà chính là để giữ bí mật, để tạo yếu tố bất ngờ, nhất là bất ngờ về hỏa lực lựu pháo và pháo cao xạ, trọng pháo đầu tiên của quân đội ta tham gia chiến đấu.
Nhiệm vụ mở đường được giao cho Đại đoàn 308, 1 tiểu đoàn công binh của Trung đoàn 151 và 5 đại đội sơn pháo của Trung đoàn pháo binh 675. Với lực lượng hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ, chỉ trong 1 đêm 14-1-1954 đã bí mật hoàn thành con đường dài 15km, rộng 3m từ bản Nà Nham men theo các sườn núi hiểm trở, qua nhiều dốc, đèo, núi cao, nhiều vực sâu đến gặp đường Điện Biên đi Lai Châu ở bản Tấu.
Nhiệm vụ kéo pháo do Đại đoàn 312 và lực lượng của Trung đoàn Pháo cao xạ 367 và Trung đoàn Pháo binh 45 đảm nhiệm. Lúc đầu, để kéo một khẩu pháo phải sử dụng 20 chiến sĩ bộ binh, tổ chức thành 2 “dây”, mỗi “dây” do 10 người kéo. Các pháo thủ, người cầm lái, người chèn, đẩy pháo; các cán bộ trung đội, đại đội pháo trực tiếp chỉ huy kéo pháo. Càng lên cao, việc kéo pháo càng khó khăn hơn, tốc độ cứ chậm dần lại. Mỗi khẩu pháo phải đấu thêm 2 “dây” nữa (40 người), có dốc cao quá đã phải tập trung tới 100 người. Hàng chục, hàng trăm chiến sĩ khỏe mạnh cúi rạp mình theo sườn dốc, rướn hết sức để kéo, đẩy pháo theo nhịp hô của người chỉ huy: “hai, ba nào” nhưng sau mỗi nhịp hô như vậy, những khẩu pháo nặng 2,5 tấn cũng chỉ nhích lên được 20-30cm. Vì vậy, sau 1 ngày đêm mỗi khẩu pháo chỉ đi được quãng đường từ 2-3km.
Kéo pháo vào đã vô cùng gian khổ, kéo pháo ra còn gian khổ hơn nhiều. Chiều 26-1-1954, Trung đoàn 45 trọng pháo Tất Thắng chuẩn bị bắn những loạt đại bác đầu tiên mở màn chiến dịch thì nhận được lệnh của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy mặt trận trực tiếp ra lệnh cho pháo binh: “Từ 17h hôm nay, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích”.
Thật ra ngày ấy, chúng tôi chưa hiểu được ý nghĩa mang tầm chiến lược của quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”, nhưng một niềm tin sắt đá vào Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, vào Bác Hồ kính yêu và Tổng tư lệnh, Tổng chỉ huy mặt trận mà toàn thể các đơn vị, các cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường Điện Biên đồng lòng quyết tâm với ý thức chấp hành kỷ luật “Quân lệnh như sơn”.
… Kéo pháo vượt những đèo dốc đứng đến 60 độ như dốc Bảy Tời, vực sâu vườn Chuối, suối Ngựa, suối Cây cụt, cửa rừng Bản Tó. Mỗi một địa danh trên là một trọng điểm, pháo binh địch luôn bắn chặn, cản đường; máy bay địch ném bom cháy (na-pan) thiêu cháy rừng, không ngày đêm nào là không có thương vong, mỗi khi có một đại đội pháo vượt qua được một cửa ải trên là như đã lập được một chiến công.
Có lần đang vượt đèo dốc, máy bay địch săn lùng mục tiêu, chúng dùng bom na-pan, đạn lửa đánh phá chặn đường, rừng bốc cháy, ngọn lửa lan nhanh vây quanh pháo. Cứu người hay cứu pháo? Không cần chờ lệnh, mọi người lập tức lao vào dập lửa, “ưu tiên” cứu pháo. Có lần đang trên đường lên dốc, bất ngờ mảnh bom địch phạt đứt dây tời, hơn bốn chục con người cố gằng ghìm lại nhưng không cưỡng nổi, bị pháo kéo lê, lao nhanh xuống dốc. Không chần chừ, các chiến sĩ rượt theo pháo để chèn. Pháo thủ Chức nhanh hơn lao vào chèn trước, pháo chồm qua người Chức, mất đà đâm ngay vào một gốc cây rồi dừng lại. Mọi người nghẹn ngào, xúc động cảm phục gương hy sinh quên mình cứu pháo của liệt sĩ Nguyễn Văn Chức.
Cũng như gương Anh hùng Tô Vĩnh Diện (pháo cao xạ), lấy thân mình chèn pháo đã nhanh chóng được truyền tới các đơn vị trên toàn mặt trận. Đêm đêm, tiếng “hò dô ta nào”, tiếng mõ tre “cốc, cốc” làm hiệu lệnh, dưới ánh trăng mờ ảo, hàng trăm chiến sĩ mình mặc áo trấn thủ, đầu đội mũ nan, cúi rạp người choãi chân, những bắp tay cuồn cuộn bám vào dây chão, dây cóc, dây mây, dây song để kéo pháo. Đêm tháng chạp, tiết trời khá lạnh, song mồ hôi của các chiến sĩ ướt đầm… Tất cả những hình ảnh, những âm thanh ấy đã tạo nên một bức tranh hùng vĩ, một không khí hừng hực khí thế quyết chiến quyết thắng, làm vang động cả núi rừng Điện Biên.
Chính trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như huyền thoại ấy, đã trào dâng trong tôi những cảm xúc mãnh liệt để sáng tác bài “Hò kéo pháo” ngay tại mặt trận:
“Hò dô ta nào,
Kéo pháo ta vượt qua đèo…
Hò dô ta nào,
Kéo pháo ta vượt qua núi…
Dốc núi cao cao,
Nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi.
Vực sâu thăm thẳm,
Vực nào sâu bằng chí căm thù.
Hò dô ta nào…”
Tới đích rồi đồng chí pháo binh ơi, vinh quang thay sức người lao động. Hò dô ta pháo ta vượt đèo. Để quyết tâm bắn tan đồn thù. Hò… ơi!”.
Khi Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp biết có bài “Hò kéo pháo”, Đại tướng yêu cầu hát cho cơ quan tham mưu và Đại tướng nghe ở Sở chỉ huy Mường Phăng và ông yêu cầu phổ biến bài hát cho các chiến sĩ trên toàn mặt trận. Bài hát đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi không chỉ riêng trong các đơn vị kéo pháo mà đến với tất cả các đơn vị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Cùng với “Giải phóng Điện Biên”, “Hò kéo pháo” đã trở thành một trong những bài ca đi cùng năm tháng của Bộ đội Pháo binh Anh hùng.
Sau giải phóng Điện Biên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử chiến sĩ Điện Biên Hoàng Vân đi học và nghiên cứu thực tập tại 10 nước Á - Âu và trở thành nhạc sĩ Hoàng Vân. Ông là một trong những nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để lại dấu ấn trong nền âm nhạc Việt Nam. Ông được Đảng và Nhà nước tặng giải thưởng cao quý, Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Bài báo nguyên bản được đăng tại đây:
2.
Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ
HOÀNG VÂN VÀ HÒ KÉO PHÁO
Nguyễn Đình San
Nếu ai có dịp chiến đấu ở Điện Biên Phủ hẳn sẽ không quên một công việc rất đỗi nặng nhọc nhưng sôi nổi, hào hứng. Đó là kéo pháo vào trận địa. Lúc ấy, để đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, chúng ta chủ trương dùng sức người để kéo pháo. Hơn ở đâu, công việc này đòi hỏi sự hợp đồng chặt chẽ, sự đồng tâm nhất trí cao độ. “Hai, ba nào! Hai, ba nào!”. Những tiếng hô vang – tín hiệu của sức mạnh và niềm tin - được cất lên. Khi ấy, nhạc sĩ Hoàng Vân có mặt ở Điện Biên Phủ với tư cách một chiến sĩ thực thụ như bao anh lính Cụ Hồ khác, và tham gia kéo pháo cùng các chiến sĩ. Ông đã tận mắt chứng kiến hành vi hy sinh quả cảm của Tô Vĩnh Diện: Lấy thân mình làm chiếc chèn để cứu pháo cho khỏi lăn xuống vực thẳm. Vô cùng cảm kích, khâm phục, lại muốn cổ vũ tinh thần hiệp đồng kéo pháo của đồng đội, Hoàng Vân nảy ra ý tưởng sáng tác một bài hát mang tính tập thể, có xướng, có xô. Ông nhớ đến câu xướng: “Tình bằng ai ơi! Đèo cao thì mặc đèo cao, tinh thần đánh giặc còn cao hơn đèo...”. Nhưng bài hò dân gian này có âm điệu rất cổ, gợi lên dáng dấp sinh hoạt của một thời xa xưa. Hoàng Vân thấy cần tạo nên một bài hò mới, trên chất liệu dân tộc nhưng phải mang rõ nhịp điệu lao động mới mẻ, khẩn trương của số đông người. Và một buổi tối nọ, ngồi trong một lán nhỏ, phải chùm chăn vì muỗi rừng nhiều như trấu, đốt đau như ong châm, những nốt nhạc đầu tiên được hình thành. Cảnh kéo pháo nặng nhọc, khẩn trương được thực hiện bởi những người lính đang sục sôi chí căm thù giặc và một khát vọng gẫy khúc và nhảy quãng liên tục. Đối với ông chưa bao giờ những hợp âm 3 bị lãng quên. Vậy mà lần này trong ông không hề vang lên âm điệu của những hòa âm quãng 3. Sau một thời gian đáng kể - tác giả hoàn thành khá nhanh bài hát. Hò kéo pháo đã ra đời mang dáng dấp một bài hò hiện đại, vừa có xướng, vừa có xô, rất phù hợp với không khí kéo pháo khẩn trương, sôi động, gian khổ, vất vả nhưng thoải mái, hân hoan:“Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi. Dốc núi cao cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi. Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...”
Hoàng Vân đã viết Hò kéo pháo bằng một bút pháp khá phóng túng. Đây là một trong những bài hát đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác âm nhạc khá đồ sộ của ông về cả số lượng lẫn chủng loại, chất lượng các tác phẩm. Về lĩnh vực ca khúc, ông cũng là nhạc sĩ có bản sắc riêng với cá tính sáng tạo độc đáo, đặc sắc. Một trong những điểm tạo nên cái duyên của ông là sự kể - nhiều khi khá dài dòng, tỉ mỉ - vốn dĩ không thích hợp trong thể loại ca khúc. Vậy mà ở ông, người ta vẫn bị thuyết phục. Ngay ở Hò kéo pháo – một ca khúc ra đời năm ông mới 23 tuổi đã báo hiệu cái đặc điểm “kể lể” ấy. Có thể coi bài hát ở thể 2 đoạn, nhưng mỗi đoạn đều có sự mở rộng khá thoải mái, không bó hẹp, nệ vào khuôn mẫu cố định nào. Chính sự “phá cách” về hình thức kết cấu, bố cục này cộng với việc tránh những quãng 3, dùng nhiều quãng 4 đi lên và đi xuống đã góp phần tạo nên tính chất hào sảng của bài hát –một đặc điểm rất cần có ở một ca khúc quần chúng nhằm vào mục đích cổ vũ, động viên tinh thần số đông người.
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở nghệ thuật sáng tác bài bày là tuy tác giả không quên nhắc đến sự vất vả cực nhọc của một hoạt động rất nặng, đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực đến mức phải cắn răng, đem hết sự bình sinh mới có thể hoàn thành công việc nhưng lại luôn toát lên vẻ vui tươi, lạc quan của người trong cuộc. Những “vai ướt đẫm, sương đêm cùng mồ hôi” và những “lửa nóng trong bom đạn bốc cháy xung quanh ta rồi”, rồi những “vực sâu thăm thẳm” v.v., vẫn phải lùi bước trước những chiến sĩ luôn phơi phới, nức lòng luôn “tin chắc thắng, ta tin tưởng ở trên” và hò reo thắng lợi: “Tới đích rồi! Đống chí pháo binh ơi. Vinh quang thay sức người lao động. Hò dô ta kéo pháo ta vượt qua đèo, thề quyết tâm bắn tan đồn thù ...” Lâu nay chúng ta vẫn theo đuổi một lý luận trong phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa: Hiện thực phải hòa quyện với lãng mạn. Cả hai yếu tố này đã thấm đượm trong Hò kéo pháo, tạo nên một giá trị vĩnh hằng – điều mà khi cầm bút sáng tác cách đây 50 năm, chưa hẳn tác giả đã chủ tâm.
Đôi điều về thân thế, sự nghiệp tác giả : Hoàng Vân có tên thật là Lê Văn Ngọ, sinh năm 1930, quê Hà Nội. Sau hòa bình lập lại (1954), ông được nhà nước cử sang Trung quốc học sáng tác âm nhạc. Về nước, ông có nhiều năm chỉ huy dàn nhạc ở Đài Tiếng nói Việt Nam, sau đó chuyển sang công tác tại Hội Nhạc sỹ Việt Nam và về nghỉ hưu tại đây. Hoàng Vân là nhạc sỹ đa năng, toàn diện: Sự nghiệp của ông đồ sộ cả trong hai lĩnh vực thanh nhạc (ca khúc) và khí nhạc (nhạc không lời). Ông chỉ huy nhạc cũng rất thành thạo và viết lý luận cũng hay. Phong cách âm nhạc của ông là dựa trên những chất liệu dân gian, truyền thống để tạo nên ngôn ngữ hiện đại. Ông là nhạc sỹ sáng tác khỏe, nhiều về số lượng, song, số tác phẩm có chất lượng cao, giá trị sâu sắc về tư tưởng và thẩm mỹ chiếm tỷ lệ rất đáng kể. Ông đề cập tới rất nhiều khía cạnh của cuộc sống thời chiến cũng như thời bình. Là nhạc sỹ viết tình ca cũng đặc sắc mà sáng tác những ca khúc sục sôi chiến đấu, mịt mùi khói lửa cũng hay. Hoàng Vân rất đa dạng về cả bút pháp lẫn chủng loại. Tóm lại, ông là một tài năng rất quý hiếm trong làng nhạc sỹ Việt Nam hiện đại. Ngoài Hò kéo pháo, ông còn nghiều ca khúc rất nổi tiếng khác như : Quảng Bình quê ta Ơi ! Bài ca Vĩnh Linh, Tình ca Tây Nguyên, Chào anh giải phóng quân chào mùa xuân đại thắng, Bài ca người giáo viên trẻ, Hát về cây lúa hôm nay, Tình yêu của đất và nước, Tâm tình người thủy thủ, Hai chị em, Bài ca giao thông vận tải, Bài ca người thợ lò, Tình ca người thọ mỏ, Bài ca xây dựng…
Pháo binh Việt Nam đã không ngừng phát triển và phát huy tác dụng lớn lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau Hò kéo pháo từng ra đời nhiều bài hát về binh chủng pháo kể cả Hoàng Vân sau này cũng có bài Bài ca pháo kích viết về pháo cao xạ, nhưng vẫn không thể vượt qua được Hò kéo pháo. Đó là một vinh quang không dễ gặt hái được đối với bất kỳ người sáng tác nào./.
3.
“Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi…” - điệu hò đặc biệt đó chỉ có thể xuất hiện trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh của dân tộc. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, bài hát được trao giải Nhất tại Đại hội Liên hoan toàn quân. Hoàng Vân cũng được thưởng Huân chương chiến công hạng 3 và Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên. Tiếp đó, ông được Tổng cục Chính trị cử đi học Đại học âm nhạc 5 năm tại Trung Quốc, rồi trở thành nhạc trưởng Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam , là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Trưởng Ban sáng tác thanh nhạc…
Chính nhạc sĩ cũng không ngờ rằng một bài hát sáng tác kịp thời để phục vụ “tại trận” như thế đã mở đầu sự nghiệp sáng tác của ông và Hoàng Vân đã trở thành tác giả của nhiều bài hát được quần chúng yêu thích...
“Bài hát ấy ra đời một cách hết sức giản dị. Dường như những thành công đều ra đời một cách giản dị như vậy chăng?”. Hoàng Vân đã tâm sự như vậy. Dạo ấy công việc chuẩn bị cho chiến dịch đang vào giai đoạn gấp rút. Hoàng Vân được cử đi quan sát chiến trường để chuẩn bị đưa các tốp văn công xung kích vào phục vụ.
Ông xúc động khi lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy pháo lớn của ta. Ông kinh ngạc khi được biết rằng những khẩu pháo nặng hàng tấn ấy được kéo lên trận địa đặt trên núi cao chỉ bằng đôi vai và đôi tay người lính. Đúng lúc ấy, một lệnh truyền xuống: “Kéo pháo ra!”. Những khối thép nặng hàng tấn lại phải dùng sức người quay những cuộn tời để kéo ra ngoài, bố trí lại theo một phương án khác.
Nếu lúc kéo pháo vào, kẻ địch hoàn toàn không hay biết gì thì lúc kéo pháo ra, bọn chúng đã đoán được. Đạn pháo và bom bắt đầu giội xuống những ngã đường chúng nghi ngờ. Nhiều lần, mảnh bom đạn đã chặt đứt giây cáp. Trong một trường hợp như thế, Tô Vĩnh Diện dũng cảm cứu pháo. Tin Tô Vĩnh Diện hy sinh đến với Hoàng Vân vào lúc 3 giờ sáng. Ông xúc động mở sổ tay ghi những nét nhạc đầu tiên xuất hiện trong đầu, dưới ánh sáng đèn dù chập chờn. Bỗng có tiếng gà rừng gáy xa xa...
Hoàng Vân kể rằng, khi nghe tiếng gà rừng gáy, ông đã liên tưởng tới tiếng kèn chiến thắng rộn rã. Bài hát viết xong, lập tức được các thành viên của đội văn công mang đi phục vụ ngay bên các khẩu pháo... Nghe bài hát, nhiều lần cả người nghe và người hát xúc động đến rơi nước mắt. Bài hát giản dị, trong sáng, viết theo hình thức quen thuộc của một thể loại hò dân gian, nên được nhiều chiến sĩ yêu thích và dễ thuộc. Bài hát lan truyền khắp chiến trường.
“Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi…”
Đó là bài hát của mồ hôi nhỏ giọt, của chung tấm lưng ướt đầm, của bàn tay siết vào dây tời, của những bắp thịt cuộn sóng...
Những lời hát như tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân ta, để làm nên một chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Cho tới hôm nay, mặc dù nhạc sĩ Hoàng Vân đã có thêm nhiều kiến thức âm nhạc đủ sức sáng tác đại hợp xướng Bài ca Điện Biên Phủ, nhưng ca khúc “Hò kéo pháo” vẫn là điểm khởi đầu của những thành công ấy. Bởi lẽ như nhạc sĩ Hoàng Vân tâm sự: “Nó là những giây phút đẹp nhất, xúc động nhất trước thiên anh hùng ca bất tử của chiến thắng Điện Biên Phủ, mà không dễ gì có được trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của tôi...”.
T.H